Thanh Hóa: Chủ tịch xã ngang nhiên chiếm dụng đất nông nghiệp của một người dân

Ông Nguyễn Hữu Đăng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Nga Giáp (huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa) bị một người dân “tố” ngang nhiên chiếm dụng toàn bộ diện tích đất nông nghiệp phục vụ sản xuất của gia đình họ để sử dụng vào mục đích khác.

Theo đơn tố cáo của ông Đinh Công Sơn, năm 2001, bố tôi là Đinh Công Tỏa chết để lại cho anh em tôi thừa kế mãnh đất A496250, tại Thôn Nội 2, xã Nga Giáp, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa với diện tích 530m2. Sau đó anh gia đình tôi gặp khó khăn nên đi làm ăn ở xa.

Theo ông Sơn, gia đình tôi có ông 5 anh em ruột trong gia đình, thì 04 anh em ông đi làm ở xa, lúc đó mẹ ông là Nguyễn Thị Cúc cùng em trai Đinh Công Tuyên đã thực hiện giao dịch bán thửa đất A496250, tại Thôn Nội 2, xã Nga Giáp, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa với diện tích 530m2, cho ông Nguyễn Hữu Đăng (ông Đăng hiện đang là Chủ tịch xã Nga Giáp) và bà Hồ Thị Loan cùng là hàng xóm, (thời điểm thực hiện giao dịch mua bán đất ông Đăng cũng là một cán bộ tại địa phương), hợp đồng mua bán thiếu sự thống nhất của 4 anh em đang công tác xa nhà, mà chỉ có mẹ ông và người thực hiện giao dịch mảnh đất thừa kế mà bố ông đã để lại cho vợ và các con làm của hồi môn.

Trụ sở Ủy ban nhân dân xã Nga Giáp nơi ông Nguyễn Hữu Đăng làm Chủ tịch xã

Trụ sở Ủy ban nhân dân xã Nga Giáp nơi ông Nguyễn Hữu Đăng làm Chủ tịch xã

Theo ông Đinh Công Sơn, mãi đến thời gian gần đây, ông và những anh em về định xây dựng lại nhà để làm nơi thờ cúng tổ tiên thì được biết, mảnh đất nêu trên đã được bán cho ông Nguyễn Hữu Đăng vào năm 2004, quá bất ngờ trước sự việc này cũng như nghi ngờ hợp đồng giao dịch này không hợp lệ, trái với các quy định của pháp luật, nên tôi đã đại diện cho 4 anh em chưa biết việc mua bán này làm đơn yêu cầu xã Nga Giáp cung cấp hồ sơ hợp đồng mua bán thời điểm đó.

“Tuy nhiên, trên cương vị lãnh đạo của mình, ông Nguyễn Hữu Đăng đã có một số hành động ngăn cản, nên đến nay tôi vẫn chưa thể tiếp cận được hợp đồng mua bán đất thời điểm năm 2004” ông Sơn bức xúc.

Bài liên quan

Ngoài ra, ông Sơn còn cho biết: “Sau khi sở hữu mảnh đất 530m2 của gia đình ông, trong thời gian qua ông Nguyễn Hữu Đăng cũng đã âm thầm chiếm đoạt luôn toàn bộ diện tích đất nông nghiệp của gia đình đang sử dụng canh tác, dẫn đến mẹ ông Sơn và em trai ông không có đất canh tác. Theo đó, toàn bộ diện tích đất nông nghiệp của gia đình ông Sơn hiện đang được ông Nguyễn Hữu Đăng sử dụng vào mục đích khác để thu lợi bất chính”.

Theo thông tin ông Sơn cung cấp, toàn bộ diện tích đất nông nghiệp của nhà ông đang được ông Nguyễn Hữu Đăng cho một người quen mượn (theo lời người này là mượn – PV?) để kinh doanh.

Trao đổi trực tiếp với PV bà Nguyễn Thị Cúc- người đã đồng ý bán mảnh đất 530m2 tại Thôn Nội 2, xã Nga Giáp, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa cho ông Đăng nói: “Tôi không ký bất cứ một giấy tờ nào bán đất nông nghiệp cho ông ấy trong thời gian qua, nhưng không hiểu sao ông ấy lại lấy đất nông nghiệp của chung tôi đi làm việc khác như vậy”.

Theo đơn tố cáo của ông Sơn, việc ông Chủ tịch UBND chiếm dụng toàn bộ đất nông nghiệp của nhà ông sử dụng và hoạt động sản xuất khác nhằm thu lợi, là vì ông này lợi dụng chức vụ quyền hạn của Chủ tịch UBND xã để thực hiện hành vi chiếm đoạt đất nông nghiệp của gia đình chúng ông Sơn.

Cũng theo đơn tố cáo của ông Sơn, ông Nguyễn Hữu Đăng đã có hành vi dụng quyền hạn của mình để chiếm đoạt toàn bộ đất nông nghiệp của gia đình ông tại địa bàn xã.

Hành vi này của ông Chủ tịch xã Nga Giáp có nhiều dấu hiệu vi phạm pháp luật, khi ông này sử dụng toàn bộ diện tích đất nông nghiệp của người khác vào mục đích sản xuất kinh doanh cho gia đình ông có hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình để chiếm đoạt tài sản của người khác.

Hành vi nêu trên có dấu hiệu phạm tội Điều 355 Bộ Luật hình sự năm 2015 sửa đổi 2017 quy định về tôi Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản:

Cụ thể được quy định như sau:

1. Người nào lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 06 năm:

a) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 năm đến 13 năm:

a) Có tổ chức;

b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

c) Phạm tội 02 lần trở lên;

d) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

đ) Gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đến dưới 3.000.000.000 đồng

e) Chiếm đoạt tiền, tài sản dùng vào mục đích xóa đói, giảm nghèo; tiền, phụ cấp, trợ cấp, ưu đãi đối với người có công với cách mạng; các loại quỹ dự phòng hoặc các loại tiền, tài sản trợ cấp, quyên góp cho những vùng bị thiên tai, dịch bệnh hoặc các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 13 năm đến 20 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;

b) Gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng;

c) Dẫn đến doanh nghiệp hoặc tổ chức khác bị phá sản hoặc ngừng hoạt động;

d) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;

b) Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên.

5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Bài liên quan